Văn hóa du lịch: August 2014

Là khách du lịch bạn nên tránh xa những quốc gia này

Syria

Cuộc chiến tranh vẫn đang diễn ra ở Syria hiện nay khiến đất nước này là một điểm đến đặc biệt nguy hiểm. Chỉ những người có nhiệm vụ đặc biệt như các nhà hoạt động nhân quyên, nhà báo, quan chức mới mạo hiệm đặt chân đến Syria. Ngoài ra cho dù Syria có an toàn hơn thì việc du lịch đến đất nước này cũng rất khó khăn bởi thủ tục visa rườm rà và khá đắt đỏ

Afghanistan

Có rất nhiều lý do khiến Afghanistan có trở thành điểm đến đặc biệt nguy hiểm đối với khách du lịch. Đất nước này luôn trong tình trạng chiến tranh và xung đột vũ trang giữa chính phủ và phiến quân Taliban, chính vì vậy đi du lịch một mình và thậm chí du lịch theo đoàn cũng không bao giờ là lựa chọn đúng đắn.

Triều Tiên

Du lịch Triều Tiên thật sự dễ dàng hơn nhiều người vẫn tưởng. Tuy nhiên chính phủ Triều Tiên luôn kiểm soát chặt chẽ tự do của du khách. Việc thăm quan thủ đô Bình Nhưỡng bắt buộc phải đặt dưới sự giám sát toàn diện của một hướng dẫn viên. Người Hàn Quốc đặc biệt bị cấm đặt chân đến Triều Tiên

Angola

Việc đến Angola du lịch mà không đi cùng hướng dẫn viên là điều rất nguy hiểm. Bên cạnh đó, đất bước này vẫn còn nhiều khu vực tiềm ẩn nguy cơ bom mìn chưa phát nổ. Việc chụp ảnh cần phải rất hạn chế, đặc biệt nếu dám chụp cảnh sát, khách du lịch sẽ bị phát rất nặng, thậm chí là ngồi tù.

Ả - Rập Xê-út

Thủ tục để xin được thị thực đến Ả-rập Xê-út rất ngặt nghèo. Công dân Israel hoặc đã từng đến Israel đều bị cấm đến đất nước này. Phụ nữ dưới 30 tuổi không được vào Ả-rập Xê-út một mình. Đàn ông và phụ nữ chỉ có thể du lịch cùng nhau nếu đã kết hôn hoặc thuộc một nhóm.

Congo

Công yêu cầu thị thực đối với tất cả khách du lịch nước ngoài và không có trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên cộng hòa Congo chắc chắn không phải là điểm đến lý tưởng bởi ngành du lịch ở đây vẫn chưa phát triển cùng với hạ tầng y tế yếu kém. Đây cũng là đất nước nguy hiểm nhất ở châu Phi do những xung đột sắc tộc liên tục diễn ra.

Iran

Xin được visa để vào Iran khá đơn giản nếu bạn không phải người Mỹ. Tuy nhiên đất nước này không ủng hộ những khách du lịch đồng tính, thậm chí đây là điểm đến nguy hiểm với họ. Khách du lịch Mỹ muốn đến Iran bắt buộc phải đi theo tour du lịch và có sự giám sát của người hướng dẫn.

Somali

Nguy cơ gặp cướp biển cao và nằm trong khu vực bất ổn do chiến tranh khiến Somalia chắc chắn không phải là một điểm đến lý tưởng để du lịch. Hơn nữa thủ tục visa khá rắc rối, khi cần phải có một visa riêng biệt mới được đến Somaliland - vùng yên bình nhất đất nước. Ngoài ra nếu khách du lịch là người Israel hoặc đã đến Israel đều không được phép đặt chân vào Somalia. Tại đất nước này không có lãnh sự của nước ngoài để giải quyết các rắc rối của khách du lịch.

Uzbekistan

Mặc dù các quy định đã được nới lỏng khá nhiều tại quốc gia Trung Á này nhưng khách du lịch từ các nước phương tây như Anh, Mỹ và Canada vẫn phải có thư giới thiệu mới được cấp visa để đặt chân đến Uzbekistan. Chỉ người dân nằm trong số các quốc gia thân Nga mới được đến đất nước này không cần Visa.

0 comments:

Vẻ đẹp nguyên sơ của hồ nước xanh nhất thế giới tại Canada

Khi hoàng hôn buông xuống, khung cảnh trở nên lung linh và thơ mộng

Góc chụp ấn tượng từ trên cao cho thấy hồ nước xinh đẹp nhất thế giới ẩn mình giữa trùng điệp núi non Canada.

Đi bộ dọc theo hồ Garibaldi là một hoạt động được đa số khách du lịch ưa thích khi tới đây.

Màu xanh trời nước tạo nên một khung cảnh đẹp như tranh.

Hình ảnh nước hồ xanh ngắt được nhiều người liên tưởng tới những bãi biển nhiệt đới đẹp như thiên đường. Hồ Garibaldi được xem là một trong những nơi tuyệt vời nhất ở Canada cho một cuộc đi bộ du ngoạn.

Màu nước xanh trong của hồ được tạo nên bởi quá trình chuyển tiếp dao động, nói một cách đơn giản là sự kết hợp thú vị giữa các hạt photon và electron.

Hồ Garibaldi nằm ngay dưới chân núi lửa cùng tên, có tuổi khoảng 500.000 năm. Làn nước hồ trong xanh tới nỗi nó được ví như một tấm gương khổng lồ, phản chiếu hình ảnh kỳ vĩ của cây cối, núi non xung quanh.

 

0 comments:

Viếng thăm lễ hội im lặng Nyepi của Bali

Nyepi còn được gọi là ngày "im lặng" của người Bali. Theo lịch Saka, nó thường rơi vào tháng 3 hàng năm và có nghĩa là ngày "ma quỷ" ra đường.

 

Tôi trở lại Bali sau tám năm, mặc kệ những lời đồn đại ở Việt Nam về sự chặt chém ở hòn đảo này. Bali trong tôi vẫn còn tinh nguyên màu xanh của rừng và những thửa ruộng bậc thang Ubud. Hòn đảo có một chút thay đổi diện mạo khi thời gian lướt qua với sân bay Ngurah Rai đang mở rộng diện tích để đón thêm khách du lịch. Giá cả có nhích lên một tí, nhưng vẫn không có ý nghĩa khi cơn bão kinh tế đang quét toàn cầu.

 

Ngày im lặng

 

Tôi ghé qua Ubud để thăm lại một vài điểm và "cố tình" để được ăn món đặc sản babi guling. Đó là những miếng thịt heo được xẻo từ một chú heo nhỏ với lớp da dày đủ độ béo giòn hoà quyện trong hương thơm tự nhiên của thịt khi được xiên quay trên bếp lửa hồng. Những cây tre cao được tết nhiều hoa và hình nộm treo khắp nơi trước các cổng nhà làm không khí nơi đây rất lạ. Hỏi ra mới biết, chỉ còn hai ngày nữa là đến ngày Nyepi – một ngày tết cổ truyền của người Bali. Dường như có một chút nhộn nhịp và hối hả trong cuộc sống của những người Bali trước ngày Nyepi.

Nyepi còn được gọi là ngày "im lặng" của người Bali. Theo lịch Saka, nó thường rơi vào tháng 3 hàng năm và có nghĩa là ngày "ma quỷ" ra đường. Ít có một nơi nào đó trên trái đất dám ngưng các chuyến bay đến và đi ở sân bay quốc tế, khách du lịch không được phép đi dạo xung quanh, không ánh sáng, không nấu nướng và không đùa giỡn trong vòng 24 giờ… Điều đó chỉ có ở Bali vào ngày đầu tiên của tết Nyepi.

 

Hơn cho sự "sợ hãi", Nyepi là những ngày kết nối tình thân giữa gia quyến và cộng đồng với nhau trong không khí hoà bình và những nghi thức được bảo tồn theo thời gian. Điều đặc biệt hơn, ngày Nyepi còn giúp cho mỗi công dân Bali hiểu được rằng mình cần phải nỗ lực như thế nào để cân bằng giữa tâm linh, cộng đồng và môi trường sinh thái của thế giới.

Anh Putu, chủ quán cho tôi biết rằng: "Theo số liệu tổng kết của sở Du lịch, có ít nhất 20.000 tấn gas không được sử dụng trong ngày Nyepi nên lượng khí CO2 thải ra giảm đi rất nhiều". Một con số thật ấn tượng ở hòn đảo nhỏ bé này.

 

Lễ hội Nyepi

 

Tôi vẫn ghé lại Ubud và đến thị trấn Tawar Agung trước một ngày Nyepi để xem nghi thức của lễ hội. Theo truyền thuyết Hindu của người Bali, vài ngày trước lễ, chúa quỷ Bhuta Kala sẽ xuống trần gian và lang thang khắp nơi để tìm người tế lễ. Không một ai dám ra đường bởi sẽ bị Bhuta Kala bắt. Để tránh Bhuta Kala quấy phá đến cuộc sống nhân loại, mọi người đều phải làm lễ để cúng vị chúa quỷ này.

 

Lễ cầu nguyện được tổ chức vào ban đêm trong sự im lặng tuyệt đối. Những người lớn tuổi Bali vẫn còn giữ nghi thức không cho phép người thân bước ra khỏi nhà từ lúc 6 giờ tối. Ngày lễ tế quỷ Bhuta Kala được gọi là Bhuta Yadnya theo tiếng địa phương.

Ở mọi nẻo đường của Ubud trước ngày Nyepi trở thành caraval đường phố đúng nghĩa. Những hình nộm chúa quỷ Bhuta Kala (tiếng địa phương Ogoh – Ogoh) với hai chiếc răng nanh to lớn được mang đi khắp đường phố. Không hình nộm nào giống hình nộm nào bởi ai cũng có thể tự hình dung ra vị chúa quỷ cho riêng mình, miễn sao hình nộm đó với khuôn mặt thật đáng sợ. Đoàn người trong trang phục trắng toát với những chiếc kèn hay trống hộ tống cùng với các Ogoh – Ogoh đi vòng quanh khắp nơi và tạo ra sự náo nhiệt khắp cả phố.

 

Tôi hỏi ông Komang – chủ khách sạn nơi tôi ở vịnh Kuta: "Trước ngày Nyepi, mỗi gia đình cần phải chuẩn bị gì cho những ngày lễ đặc biệt này?" Ông cho biết: "Đó là những ngày tết vô cùng đặc biệt ở Bali, những người trẻ vô cùng phấn khích bởi họ phải mài công tìm kiếm vật liệu và suy nghĩ để tạo ra Ogoh – Ogoh sao cho thật đặc biệt. Với những người lớn tuổi họ cần phải chuẩn bị lễ vật đặc biệt để cúng vào ban đêm. Hai cây tre cao được đặt trước nhà có tác dụng xua đuổi ma quỷ. Cũng cần phải chuẩn bị một số món ăn truyền thống để gia đình quay quần bên nhau…"

Theo ngôn ngữ Malayo – Polynesian của người Bali, Bhuta có nghĩa là "các thành phần của tự nhiên", Yadnya có nghĩa là "lễ tế thần" và Kala có nghĩa là "năng lượng". Mặc dù là lễ hội tâm linh lớn của người Bali và có nhiều thay đổi trong nghi thức khoảng 50 năm nay, nhưng người Bali đặt tên các nhân vật hay lễ hội để nhắm đến việc ý thức bảo vệ môi trường để hòn đảo đã xanh càng xanh hơn.

 

Tôi tận hưởng ngày Nyepi ở Bali bằng việc ngủ muộn và cuộn tròn mình trong chiếc chăn ấm áp. Bên ngoài im phăng phắc và chỉ nghe tiếng động của một vài chiếc lá rụng bên thềm nhà. Ngày hôm qua, tôi đã mua sẵn một ít cơm được gói chặt trong chiếc lá chuối xanh, những miếng babi guling có cứng và khô hơn một chút, nhưng nó vẫn còn béo ngậy và thơm…

0 comments:

Những ngôi nhà khác người trên toàn USA

Nhà trên đá, Wisconsin

Alex Jodan xây dựng ngôi nhà độc đáo này vào năm 1945. Căn nhà có 3.000 cửa sổ và nằm cao so với đáy thung lũng khoảng 47m. Ngôi nhà được mở cửa cho công chúng tham quan vào năm 1960.

Nhà Kim tự tháp vàng, Illinois

Ngôi nhà sở hữu kiến trúc độc đáo như những kim tự tháp ở Ai Cập và bức tượng khổng lồ của vua Ramses II phía trước cửa, gồm 6 tầng và hồ nước bao quanh.

Biệt thự của gia đình Winchester, California

Vào năm 1919, góa phụ Sarah Winchester đã xây ngôi nhà bề thế này ở San Jose, California với hy vọng nơi cư trú mới sẽ giúp bà tránh xa những linh hồn ma quỷ đang cố gắng ám ảnh bà.

Nhà giày, Pennsylvania

Căn nhà hình chiếc giày ở Pennsylvania với 3 phòng ngủ, 2 phòng tắm, một bếp và một phòng khách được xây dựng bởi Mahlon N. Haines. Ngày nay, nơi này mở cửa từ tháng 6-10 để du khách tới tham quan.

Nhà bia, Houston, Texas

Ngôi nhà độc đáo này thuộc về người đàn ông có tên là John Milkovisch và được làm từ 5.000 vỏ lon bia tích trữ suốt hơn 20 năm. Sau khi vợ chồng Milkovisch qua đời, vào năm 2001 chính quyền địa phương đã mua lại ngôi nhà và biến nó trở thành điểm đến tham quan hút khách du lịch

Bảo tàng Pickle Barrel House, Grand Marais, Michigan

"Thùng muối dưa" là ngôi nhà của William Donahey, một họa sĩ vẽ tranh biếm họa. Ông xây dựng ngôi nhà vào năm 1926 tại Grand Marais, bang Michigan, Mỹ. Hiện ngôi nhà có chức năng như một bảo tàng, mở cửa cho du khách thăm quan từ tháng 6-9 hàng năm.

Nhà hình khúc gỗ, California

Ngôi nhà làm từ thân cây gỗ 100 năm tuổi tại Garberville, California có duy nhất một phòng ngủ. Cây gỗ có khối lượng 42 tấn, chiều cao 10 m

0 comments:

Văn hóa thế giới trong một ly trà

Trà bơ, Tây Tạng

Bỏ một miếng bơ làm từ sữa trâu yak trong ly trà của bạn là cách người Tây Tạng và các cộng đồng cư dân trên dãy Himalaya uống trà. Các nông dân làm việc trên độ cao và bộ lạc du mục thường uống hỗn hợp gọi là "po cha" gồm trà đen, muối và bơ trâu yak nhằm có thêm calo cũng như chống nứt môi.

Tại Bhutan, những người địa phương uống trà bơ với zow, loại bánh gạo đỏ nướng với đường. Bạn nhất định không nên bỏ qua cơ hội thưởng thức loại trà độc đáo này khi có dịp.

 

Còn rất nhiều loại trà phong phú và độc đáo trên thế giới như trà bọt Đài Loan, trà Thái, masala chai … Hãy cùng chia sẻ những loại trà mà bạn biết và đâu là nơi tuyệt nhất để thử chúng

 

Sweet Tea, Mỹ

Sweet tea – trà ngọt đã rất được ưa chuộng tại Nam Mỹ nhưng những ai thích thú hương vị trà có lượng đường cao sẽ cảm thấy thích thú khi biết rằng Summerville bang South Carolina vừa được công nhận là nơi khai sinh ra Sweet Tea.

Khám phá con đường trà Sumerville – Sweet Tea Trail, bạn sẽ có thêm nhiều cảm nhận gần gũi đặc biệt là tại vùng trồn trà Charleston Tea Plantation duy nhất tại nước Mỹ (gần đảo Wadmalaw). Thương hiệu Luzianne được coi như có các sản phẩm đặc trưng cho loại trà ngọt truyền thống

 

Oolong, Trung Quốc

Có rất nhiều học thuyết về sự xuất hiện của trà oolong nhưng loại trà này luôn được coi là có nguồn gốc từ Trung Quốc. Cũng giống như trà xanh hay trà đen, oolong hay wolong (trong tiếng Trung có nghĩa là "rồng đen"), có nguồn gốc từ Camellia sinensis (loại cây mà lá và búp được sử dụng để làm trà). Sau khi những chiếc lá được hái, chúng được phơi hoặc xao lên cho héo lại, quá trình oxy hóa mạnh mẽ trước khi uốn và xoắn. Mức độ lên men cũng tùy vào sự đa dạng và phong cách trong sản xuất.

Bạn đã từng thử loại trà oolong hảo hạng?Một kg Da Hong Pao Oolong có giá lên đến 30.000 USD. Teavana's Monkey Picked Oolong cũng là một loại trà oolong thú vị. Theo truyền thuyết cái tên này bắt nguồn sau khi một nhà sư đã dạy những con khỉ chọn hái búp trà tươi và non trên đỉnh các cây trà dại

 

Rooibos, Nam Phi

Thường được gọi là "bush tea – trà bụi" hay "red tea – trà đỏ" bởi màu sắc đặt trưng. Loại trà này đã bắt đầu được trồng từ hàng trăm năm trước bởi những người Nam Phi bản địa tại vùng Cederberg. Khi người Hà Lan đến đây, họ đã chuyển sang sử dụng trà rooibos bởi có giá rẻ hơn loại trà đen nhập từ Anh Quốc.

Rooibos đã nổi lên trong những năm gần đây (trở thành loại trà tiểu thuyết – nói theo cách chơi chữ) sau khi xuất hiện trong loạt truyện bán chạy nhất của tác giả Alexander McCall mang tên No.1 Ladies' Detective Agency. Trà bụi cũng trở nên phổ biến trong việc điều tiết sức khỏe nhờ vào hàm lượng chống oxy hóa cao, ít chất caffeine và có khả năng tăng sức đề kháng.

 

Có rất nhiều loại hương trộn vào trà rooibos nhưng Numi Tea và The Republic of Tea được nhiều người ưa chuộng

 

Assam, Ấn Độ

Darjeeling (thuộc bang West Bengal) có thể nổi tiếng nhất tại Ấn Độ vì sự phong phú về trà, nhưng bang Assam cách xa đó hàng trăm dặm về phía đông mới là vùng trồng trà lớn bậc nhất trên thế giới. Không giống như Darjeeling trà được trồng trên cao nguyên, những cánh đồng trà tại Assam được trồng trên vùng đất ngang với mặt nước biển, góp phần mang đến nét đặc trưng riêng cho trà nơi đây với vị đậm đà và màu nước xanh.

Thay vì lấy thời gian theo chuẩn chung của Ấn Độ (India Standard Time - IST), vùng Assam lấy mốc thời gian gọi là "tea garden time" hay Bagantime đi trước một tiếng đồng hồ bởi mặt trời thường lên sớm hơn so các vùng khác ở Ấn. Bạn có thể thử các sản phẩm của Assam Tea Company

 

Trà bạc hà, Morocco

Biểu tượng cho lòng hiếu khách của người Morocco đôi khi đơn giản và mộc mạc như chính ly trà mà họ mang lại. Một ấm trà xanh được pha bằng nước nóng và nhúm lá bạc hà tươi, thêm chút đường là bạn đã có thể cảm nhận trọn vẹn hương vị thơm mát. Để phân biệt với trà thường người ta gọi trà bạc hà với cái tên atai, đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Maghrebi (Bắc Phi) và được xem như một loại hình nghệ thuật.

Trong những buổi lễ truyền thống, trà được rót ra khỏi ấm từ trên cao cách miệng ly hơn một gang tay để tạo bọt. Tại Morocco, trà bạc hà thường được người đứng đầu gia đình mang ra mời khách và sẽ là bất lịch sự nếu bạn từ chối lời đề nghị này. Các loại trà nổi tiếng như Teavana Moroccan Mint Tea hay Mighty Leaf Marrakesh Mint

 

Earl Grey, Anh

Những nhà văn hóa học cho rằng loại trà này được giới thiệu đến vị nữ hoàng trẻ tuổi Victoria bởi Charles Grey (1764 – 1845), người sau này trở thành Thủ tướng của nước Anh những năm 30 của thế kỷ 19. Tên của loại trà cũng được đặt theo tên ông nhưng những nhà nghiên cứu và viết nên quyển từ điển trứ danh Oxford English Dictionary đã đặt câu hỏi về vấn đề này trong xuất bản của họ năm 2012 rằng, liệu có đúng Charles Grey là người đứng sau sự ra đời của trà Earl Grey.

Những năm 1830, các công ty trà bắt đầu bỏ thêm dầu bergamot vào những lá trà để tăng thêm vị. Trong khi đó thứ thức uống có mùi cam quít đã được chính Earl Grey làm mẫu và tán dương. Những ly trà đen Trung Quốc từ đó đã thay đổi và được mang tên ông đồng thời trở thành sự pha trộn được nhiều người yêu thích. Hai nhãn trà nổi tiếng là Twinings Earl Greay hay Jacksons of Picadilly với sản phẩm Ceylon Earl Grey.

0 comments:

Ăn gì khi đến Mỹ

Thực đơn của người Mỹ trong thay đổi theo từng vùng bắt đầu từ giữa thế kỉ 18. Trong khi những bang miền Nam có thể trồng trọt hầu như quanh năm thì những bang miền Bắc lại không thể. Tất cả đã tạo nên sự đa dạng về văn hóa ẩm thực Mỹ

 

Beefsteak

Bắt nguồn từ Anh, giờ đây beefsteak đã trở thành một món ăn đậm chất Mỹ sau nhiều năm du nhập.

Apple pie

Apple pie theo người Anh du nhập vào Mỹ, gốc gác chính là loại bánh Tart ở Châu Âu. Cho đến ngày nay thì Apple pie đã trở thành 1 trong các loại bánh truyền thống của Mỹ, nếu không muốn nói là "truyền thống nhất"… Vì hễ nói đến pie, người Mỹ sẽ nghĩ ngay đến Apple pie, dù rằng có rất nhiều loại pie.

 

Tacos

Một món ăn khá ngon, có nguồn gốc ở Mê-hi-cô nhưng cực phổ biến ở Mỹ. Taco có nhiều dạng - có thể coi như một dạng sandwich của Mehico. Thường vỏ ngoài làm bằng ngô nghiền nát, như kiểu corn chips (bim-bim ngô). Khi ăn, người ta thường xúc nhân thịt (hoặc đỗ cho người ăn chay) vào cùng với một số loại xà lách, ớt ngâm dấm, kem chua và quả bơ. Nói chung món ăn này phú hợp cho những du khách du lịch Mỹ thích ăn cay.

 

Burritos

Câu chuyện về món bánh burrito bắt nguồn từ sáng kiến của người đàn ông tên Juan Mendez, một người bán thức ăn dạo trong giai đoạn cách mạng Mexico (1910-1921) tại khu Bella Vista ở Ciudad Juárez, Chihuahua. Để giữ thức ăn nóng, Juan đã nghĩ ra cách gói phần nhân lại bằng chiếc bánh ngô lớn, bên ngoài gói thêm một lớp giấy. Thực khách rất ưa chuộng món ăn này, gọi nó là món burrito, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "con lừa nhỏ". Tên gọi này bắt nguồn từ hình ảnh phần bánh bột dư ở góc chiếc bánh trông như cái tai lừa nhỏ và từ việc chiếc xe bán thức ăn ngày đó thường do lừa kéo.

 

Điều thú vị là burrito được ưa chuộng ở Mỹ hơn hẳn ở Mexico. Nhiều nhà hàng ở phía Nam hoặc trung tâm Mexico không bán loại bánh này, trừ những lúc họ phải đón nhiều khách du lịch đến từ Bắc Mỹ.

 

Burrito có phần vỏ là bánh bột ngô Tortilla (đường kính 24.5 cm hoặc hơn) và phần nhân là thịt bò, gà hoặc heo. Phần vỏ bánh ngô thường có màu ngà truyền thống hoặc màu xanh, vàng hay đỏ; được nướng hoặc hấp sơ cho có độ mềm để gói phần nhân phía trong.

 

Macaroni

Macaroni là một loại nui tròn, ngắn, cong, làm từ bột mì có nguồn gốc từ Trung Quốc, được nấu chín và dọn dùng chung với phô mai ở khắp nước Ý trong vòng hơn 500 năm qua. Món này du nhập vào nước Ý nhờ Marco Polo. Đến thế kỷ 18, các dạng khác nhau của món nui này trở nên nổi tiếng khắp châu Âu. Trong quá trình đi tìm thuộc địa, người Anh đã mang món ăn này tới Bắc Mỹ. Từ những năm 1800, thực đơn của nhiều phiên bản macaroni và phô mai đã xuất hiện trong các cuốn sách hướng dẫn nấu ăn tại Mỹ.

Phổ biến nhất nước Mỹ, và tỏ rõ cả quyền lực, sức ảnh hưởng to rộng trên thế giới phải kể đến fastfood. Hình ảnh những quầy fastfood mở cửa 24/7 tràn ngập trên bản đồ ẩm thực thế giới với tiêu chí nhanh-gọn-đủ chất đã trở thành một trong những biểu tượng đáng tự hào của nền ẩm thực dễ tính này.

 

Hamburger

Tên hamburger có nguồn gốc từ tên của thành phố Hamburg, Đức, một người dân từ Hamburg được gọi là "Hamburger"; theo đó, bất cứ vật gì có nguồn gốc từ thành phố này hay được phổ biến đầu tiên tại đây được có tên gọi này. (Tuy nhiên, tên của loại đồ ăn này không được viết hoa). Đầu tiên một loại bánh có thịt bò xay tên là "thịt nướng Hamburg" (Hamburger steak) được nhắc đến trong một sách nấu ăn ở Mỹ năm 1891; món này được đặt giữa hai lát mì, và được gọi là "bánh kẹp Hamburg" (Hamburger sandwich). Đến giữa thế kỷ 20, cả hai tên gọi này đã được đọc ngắn lại thành "hamburger" hay "burger".

 

Hot dog

Hot dog là loại xúc xích mà trong đó thịt được nghiền mịn, ăn kẹp với bánh mì. Nhắc đến tên "hot dog", hẳn tất cả  khách du lịch Mỹ đều thấy thật kỳ lạ. Tại sao người ta lại đặt tên loại bánh nổi tiếng này là hot dog?

 

Tên "hot dog" không phải đặt theo tên tên gọi của người Đức. Người ta vẫn tin rằng, có một người Đức di cư tới New York và bán xúc xích bởi ông nắm rõ thói quen yêu thích bóng chày của người Mỹ, ông đưa ra ‎ý tưởng kinh doanh một loại thức ăn tiện lợi mà khi các cổ động vieen vào sân vừa có thể ăn vừa có thể xem. Điều này đã được một họa sĩ của tờ báo New York Times vẽ lại thành bức tranh mang tên Tad Dorgan. Tên của chiếc bánh được gọi là "Dachshund".

 

Tuy nhiên do mọi người không biết cách phát âm của Dachshund và cứ gọi là hotdog. Nhưng thực tế không phải vậy! Quay trở lại những năm 1880, khoảng thời gian đó, đã có rất nhiều thịt ngựa và thịt chó được dùng để làm xúc xích. Người ta đọc ngựa (horse) và chó (dog) liền nhau: horsedog, dần dần nó đã được biến thể thành hotdog như ngày nay.

 

Pizza

Tiền thân của pizza là những chiếc bánh làm bằng bột mì được nướng trên những phiến đá phẳng và nóng. Khoảng 1000 năm trước, tấm bột mì nhào hình tròn có rắc lá thơm và gia vị lên trên xuất hiện và trở niên phổ biến tại Napoli, Ý.

 

Đến đầu thế kỷ 20, bánh pizza theo những đoàn người Ý di cư sang châu Mỹ. Năm 1905, một người Mỹ gốc Ý tên là Gennaro Lombardi mở cửa hàng bánh pizza mang phong cách Mỹ đầu tiên ở New York. Cũng chính tại nước Mỹ, bánh pizza trở thành một món ăn nhanh được giao đến tận nhà. Phong cách này nhanh chóng trở thành hình ảnh quen thuộc trên toàn thế giới nhất là sau năm 1945. Trong thời gian Thế chiến thứ hai, những người lính từ Anh, Pháp, Mỹ vì những lý do khác nhau đã có mặt ở Ý. Khi trở về, họ mang theo những phương thức làm bánh pizza của người bản xứ và thường mở cửa hàng bán bánh giao tận nhà theo phương cách của Mỹ. Cho đến ngày nay, bánh pizza đã có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở mỗi nơi, người ta lại tạo cho những chiếc bánh những đặc trưng ẩm thực riêng. Những với du khách du lịch Mỹ khi thưởng thức pizza ở đây đều cảm nhận được sự khác biệt

 

Donut

Donut là một loại bánh nổi tiếng thế giới có nguồn gốc từ Mỹ. Bánh Donut, còn được gọi là Doughnut, một loại bánh nướng được làm từ bột mì. Đây là loại bánh thường dùng vào bữa sáng, họăc để ăn chơi. Bánh có hình chiếc nhẫn hoặc hình tròn mỏng dẹt, to bằng bàn tay. Donut được đặc trưng bằng cách bài trí thiết kế mỹ thuật cho bánh. Bên cạnh vẽ mỹ thuật là sự ngọt ngào từ lớp chocolate và các nguyên liệu khác như cốm, trái cây .... làm tăng vẻ mỹ thuật cũng như khẩu vị của bánh.

 

Americano

Là loại café nghe tên "rất Mỹ" nhưng lại hoàn toàn bắt nguồn từ nước Ý – café Americano. Thực ra, Americano chính là Espresso nhưng được pha loãng với lượng nước gấp đôi. Nhiều người không hề thích Americano tẹo nào vì họ cho rằng nó đã "phá tan" cái "chuẩn" của Espresso nhưng lại có những người rất khoái Americano vì nó vừa giữ được hương vị của Espresso nhưng đồng thời cũng hạn chế được nhiều tác hại từ cafein.

0 comments:

Đắm mình trong hồ nước nóng tự nhiên lớn bậc nhất châu âu

Hồ Heviz nằm gần thị trấn Heviz của Hungary, gần cuối phía tây của hồ Balaton, cách Keszthely khoảng 8 km. Heviz là hồ nước nóng lớn nhất ở châu Âu và lớn thứ hai trên thế giới với diện tích bề mặt là 47.500 m2. Dòng nước nóng xuất ra từ các vết nứt dưới lòng hồ thường có nhiệt độ khác nhau, sau đó trộn lẫn với nước lạnh có sẵn trong hồ và khuếch tán rộng ra. Sự trộn lẫn nước với nhau làm hồ luôn duy trì một nhiệt độ ổn định qua các mùa.

Nước trong hồ Heviz rất giàu hàm lượng axit cacbonic, lưu huỳnh, canxi, magiê, hydro cacbonat và thậm chí là một chút chất phóng xạ, được cho là có đặc tính chữa bệnh.

 

Ở trung tâm hồ có một nhà tắm bằng gỗ được xây dựng vào thế kỷ 18 mà trông vào giống như đã hơn hai trăm năm tuổi. Hoa súng xinh đẹp được đưa đến Hungary vào cuối thế kỷ 19, người ta thả xuống lòng hồ để điểm xuyết và hỗ trợ hệ sinh thái phong phú cho hồ. Sương mù bao phủ bề mặt làm chậm quá trình bay hơi cùng với dây leo bảo vệ lớp bùn đen có tác dụng trị bệnh nằm dưới đáy hồ.

Lớp bùn đen nằm dưới đáy hồ được nuôi dưỡng bằng hai dòng nước lạnh và ấm, rất giàu hàm lượng khoáng chất, bắt nguồn từ các con suối nằm trong hang động sâu 40 m. Dòng chảy của con suối là rất cao, bổ sung hoàn toàn dưỡng chất cho hồ. Vào mùa đông, nhiệt độ trong hồ dao động từ 23 đến 25 ° C và 33 đến 36 ° C vào mùa hè.

Hiệu quả chữa bệnh của hồ được cho là một sản phẩm của sự pha trộn độc đáo giữa các chất hữu cơ và vô cơ trong những vùng nước. Heviz là một hồ nước có hoạt tính sinh học và là ngôi nhà của một số lượng lớn vi khuẩn có lợi.

 

Một số loài vi khuẩn được tìm thấy trong các dòng nước được cho là chỉ xuất hiện duy nhất trong hồ này. Điển hình là Micromonospora heviziensis, một loại vi khuẩn sản xuất ra hàm lượng protein và xenlulo độc đáo. Tương tự, với hai loài tảo lục và tảo xanh Pseudanabaena papillaterminata và Pseudanabaena crassa cũng phát triển rất phong phú trong hồ.

Từ xa xưa, người Hungary đã tin rằng việc ngâm mình trong nước khoáng nóng có thể trị được bệnh, đặc biệt là các bệnh ngoài da và viêm khớp. Ngày nay, những chuyến du lịch chăm sóc sức khỏe đến hồ không xa lạ gì đối người dân bản xứ và các nước lân cận. Xung quanh khu vực hồ Héviz, các khu spa chăm sóc đặc biệt mộc lên như nấm nhằm mang lại cho du khách những dịch vụ tốt nhất có thể.

0 comments:

Những bức tượng kỳ thú thu hút khách du lịch thế giới

Người công chức bí ẩn trên đường phố ở Reykjavik, Iceland.

Ba chú lợn như đang lục tìm đồ ăn ở Adelaide, Australia.

Tòa nhà như bị nhấn chìm trước thư viện quốc gia ở thành phố Melbourne, Australia.

Những chú hà mã đầm mình trên một con phố ở Đài Bắc, Đài Loan.

Một chú nhện khổng lồ ở London, Anh.

Đây là một bức trong loạt tượng "không nguyên vẹn" có tên Les Voyageurs ở Marseilles, Pháp.

Bóng ma ngoi lên từ mặt nước ở Klaipeda, Lithuania.

Tác phẩm khơi gợi sự giải phóng, tự do của Zenos Frudakis ở Philadelphia, Pennsylvania, Mỹ.

Cây súng với nòng bị thắt nút tại New York, Mỹ.

Những đôi giày bên bờ sông Danube, Budapest, Hungary.

Lũ trẻ chạy ùa đi tắm sông là cảm hứng tạo nên tác phẩm "Những con người miền sông nước" ở Singapore của nhà điêu khắc Chong Fah Cheong.

Một chú cá bị mặc kẹt trên một bức tường ở Portland, Oregon, Mỹ.

Tác phẩm "Những con người vô danh" ở thành phố Wrocław, Ba Lan khiến du khách ngỡ như họ đi lên từ lòng đất.

 

1 comments: